Doanh nghiệp Vinamilk cùng Hành trình 40 năm của sữa đặc Ông Thọ tại Toàn Quốc

Thảo luận trong 'Các đồ gia dụng khác' bắt đầu bởi nguyen thi tho bucu, 10/5/21.

  1. Những lon sữa đặc Ông Thọ một thời là hàng xa xỉ phẩm nay có mặt tại mọi vùng miền đất nước và xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.

    Đầu tháng 7, nhà máy sữa Driftwood ở Mỹ do Cty TNHH thu mua phế liệu nhôm Vinamilk ở Toàn Quốc sở hữu 100% vốn giới thiệu sữa đặc và creamer tại hội chợ Fancy Food Show. Đây là một trong những hội chợ lớn nhất về ngành thực phẩm ở Mỹ, thu hút hàng nghìn company uy tín trong lĩnh vực chế biến, sản xuất thực phẩm từ nhiều quốc gia tham dự.

    Kết thúc hội chợ, các sản phẩm này đưa vào bán ở các siêu thị ở bang Arizona và California. Đặt chân vào thị trường Mỹ không dễ dàng. Sữa đặc và creamer sản xuất tại Việt Nam phải đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với ngành thực phẩm nói chung và ngành hàng sữa nói riêng, được FDA và USDA công nhận chất lượng, cấp giấy phép nhập khẩu.

    Trước đó, sản phẩm sữa đặc Vinamilk đã xuất sang Nhật, Canada, Hàn Quốc, Khu Vực Trung Đông, ASEAN, châu Phi…. Với nhãn hiệu Ông Thọ, Bestcows, Angle, Captian, Driftwood, Ngôi Sao Phương Nam…, chiếm tỷ trọng 34% về sản lượng xuất khẩu năm 2015.

    Bà Mai Kiều Liên - Tổng giám đốc Vinamilk nhìn nhận, vị thế hiện nay là "quả ngọt" từ việc kiên trì xây dựng nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ trong 40 năm. Công ty đang sở hữu 13 nhà máy ở Hà Nội, 3 nhà máy ở Mỹ, New Zealand và Campuchia. Trong đó, 4 nhà máy ở Việt Nam và một nhà máy tại Campuchia sản xuất sản phẩm sữa đặc với tổng công suất hơn 300 triệu lon một năm, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.

    [​IMG]

    Nhà máy Angkor Milk của Vinamilk ở Campuchia ra lò mẻ sản phẩm sữa đặc đầu tiên trong ngày khánh thành.

    Cuộc hành trình của sữa đặc bắt đầu từ sau giải phóng, khi đơn vị thu mua phế liệu đồng Vinamilk tại TPHCM tiếp quản 3 nhà máy tại miền Nam gồm nhà máy Thống Nhất, nhà máy Trường Thọ và nhà máy Dielac. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thiết bị công nghệ cũ kỹ, không có nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyện liệu nên đơn vị hoàn toàn thụ động trong sản xuất. Các nhà máy chỉ chạy chưa tới 1/20 công suất, sản xuất cầm chừng vài nghìn lon sữa mỗi tháng.

    "Thời kỳ này, sữa đặc được xem như hàng xa xỉ phẩm do quá khan hiếm và đắt đỏ. Hộp sữa đặc phân phối theo tiêu chuẩn, dù vỏ lon khi đến tay người tiêu dùng nhiều lon bao bì đã ố vàng nhưng vẫn là niềm ao ước của biết bao người. Chỉ những người ốm hay trẻ nhỏ, người già mới được uống cốc sữa để bồi bổ sức khỏe", bà Mai Kiều Liên nhớ lại.

    Để giải quyết khó khăn, lãnh đạo Vinamilk chủ động liên doanh liên kết với các company xuất nhập khẩu có ngoại tệ mạnh, đặc biệt là Seaprodex. Song song đó, Cty TNHH cho ra mắt nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ. Đây là dòng sản phẩm cao cấp, bán ở các cửa hàng Cosevina và Imexco nhằm xuất khẩu ở chỗ lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu. Kết quả, từ vài trăm triệu đồng ban đầu, Công Ty TNHH đã nâng vốn tự có lên 20 tỷ đồng vào năm 1987, gia tăng sản lượng, doanh thu vượt kế hoạch.

    Thành công vừa mới đạt lại vụt mất vào đầu những năm 1990. Do cấm vận kinh tế nên đơn vị thu mua phế liệu inox Vinamilk tại Hà Nội không nhập được phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất, bị động nguồn nguyên liệu. Kỹ sư và công nhân đã cùng nhau vượt khó bằng cách tự thiết kế hình Ông Thọ dập nổi, sáng tạo gia công khuôn nắp lon sữa, tận dụng phế liệu chiến tranh như xác xe tăng, nòng pháo...

    "Chúng tôi 'mù' thông tin về giá cả thị trường thế giới, trong khi nguyên liệu lại nhập khẩu hoàn toàn, không giao lưu trao đổi với bên ngoài, bị động nguồn vốn ngoại tệ mạnh. Làm sao có thể giảm giá mua, từ đó giảm giá thành sản phẩm là bài toán khó", bà Liên nói.

Chia sẻ trang này