Làm gì khi đàn gà nhà bạn nhiễm ORT

Thảo luận trong 'Các thể loại khác' bắt đầu bởi maimy132, 26/10/18.

  1. maimy132

    maimy132 Member

    1. Bệnh ORT là gì?

    Bệnh ORT ở gà là một bệnh hô hấp cấp tính do vi khuẩn có tên là Ornithobacterium rhinotracheale gây ra. Vi khuẩn tác động trực tiếp lên đường hô hấp và phổi với các biểu hiện điển hình như gà khó thở, khẹc, ngáp, ho, chảy nước mắt mũi, phổi viêm có mủ và bã đậu hình ống.

    Điều trị bằng các thuốc kháng sinh thông thường như: Tylosin, Cephacilin, Enrocin…bệnh có giảm nhưng không đáng kể.

    Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa hè và thời điểm giao mùa, khi độ ẩm không khí tăng cao. Gà thịt thường mắc lúc 3 – 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần tuổi trở lên. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao từ 50 – 100% nhưng tỷ lệ chết và loại thải thấp 5 – 20%.

    Vi khuẩn này có thể sống ký sinh trên gà và ngoài môi trường, khả năng lây lan nhanh. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào khả năng gây bệnh của các chủng vi khuẩn, virus kế phát, các vấn đề về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như việc can thiệp chữa trị, dùng thuốc có đúng, kịp thời hay không.
    [​IMG]


    2. Nhận biết bệnh ORT ở gà



    Bệnh tích:

    – Phổi bị viêm hóa mủ tập trung hoặc rải rác trên bề mặt.

    – Bên trong khí quản, 2 phế quản chính và phổi có bã đậu, mủ, dịch mủ.

    – Túi khí viêm có bọt khí, có thể có mủ màu vàng; Có màng ở túi khí, màng gan, màng tim.

    – Khí quản (cuống họng) gần như không xuất huyết hoặc có xuất huyết ít. Niêm mạc khô, ít nhầy.



    Triệu chứng:

    – Chảy nước mắt mũi, sưng mặt.

    – Gà đẻ: sụt đẻ, đẻ non, vỏ trứng mỏng.

    – Bệnh phát sinh từ từ theo từng ô chuồng chứ không xẩy ra ồ ạt.

    – Thể bệnh mãn tính âm thầm: nhiều gà còi cọc, chậm lớn, tiêu tốn thức ăn tăng cao, giá thành sản xuất tăng.

    – Thể bệnh cấp tính hơn: gây chết lên tới 30% trở lên.

    – Có thể tiêu chảy, có dịch viêm trên nền chuồng

    – Chết trong trạng thái “ngã ngửa” (xác chết béo).

    – Gà khó thở, rướn cổ thở, ngáp gió, ho, lắc đầu, vẩy mỏ, khẹc, …

    – Gà sốt rất cao, ủ rũ, giảm ăn.

    3. Làm gì khi đàn gà nhà bạn nhiễm ORT?

    Thông thường thì bệnh ORT trên gà hay ghép với các bệnh khác. Nó có thể là nguyên nhân chính cũng có thể là bệnh kế phát sau các bệnh khác (mà chủ yếu là kế phát). Bởi vậy, nguyên tắc trong điều trị ORT là ưu tiên bệnh nào chết nhiều thì điều trị trước.

    Ví dụ: Nếu đàn gà mắc ILT trước và sau đó kế phát thêm ORT thì ta nên làm lại vacxin ILT (nhỏ thẳng mũi, nếu cho uống thì uống với liều gấp đôi) rồi ngày hôm sau mới điều trị ORT.

    Hướng xử lý bệnh ORT trên gà cụ thể như sau:

    Bước 1: trước khi điều trị cần giảm sốt cho gà, sau đó nâng cao sức khỏe cho gà rồi mới sử dụng thuốc kháng sinh hay các thuốc để tiêu diệt mầm bệnh → khi phát hiện bệnh, trước tiên chúng ta cần cho gà sử dụng đồng thời các thuốc sau:

    – Hạ sốt: có thể dùng paracetamon.

    – Long đờm: có thể dùng Bromhexin.

    – Giải độc gan thận cùng với bổ gan thận.

    – Thuốc trợ sức, trợ lực, vitamin tổng hợp tăng sức đề kháng, .

    Bước 2: Tiêu diệt, kìm hãm mầm bệnh bằng các thuốc kháng sinh hay các axit hữu cơ có tác dụng kháng khuẩn.

    – Một số kháng sinh nhạy cảm với bệnh ORT trên gà:

    + Ceftiofur (kháng sinh thế hệ mới hoạt phổ rộng): tiêm.

    + Linco – Spect: tiêm

    + Gentamycin kết hợp với amoxicilin: tiêm.

    + Flodoxy (florfenicol và doxycycline): uống và trộn

    – Axit hữu cơ: Butaphosphan.

    Do bệnh xảy ra chậm nên mỗi liệu trình cần điều trị cần kéo dài trong khoảng thời gian 5-7 ngày nhằm tiêu diệt triệt để mầm bệnh.

    Ví dụ một liệu trình đã được sử dụng để điều trị bệnh ORT trên gà có hiệu quả khi phát hiện bệnh như sau:

    – Đầu tiên: Dọn dẹp vệ sinh lại chuồng trại sau đó phun sát trùng trong và ngoài trang trại.

    – Mỗi ngày 2 lần sáng và tối trong 5 ngày điều trị:

    Hòa bột Para C (hạ sốt) vào nước cho toàn đàn uống.

    Trộn cám thuốc long đờm (trường hợp này bác sỹ điều trị sử dụng thuốc long đờm giành cho người nhưng VietDVM không khuyến cáo bạn sử dụng như vậy, bạn có thể thay thế bằng các loại thuốc long đờm dành cho thú y) cho toàn đàn.

    Đồng thời dùng 3 loại: thuốc giải độc + bổ gan thận + vitamin tổng hợp (thành phần trọng yếu là vitamin C) hòa tan vào nước cho toàn đàn uống.

    – Chiều ngày thứ nhất và ngày thứ 2: nhanh nhất là 4-6 tiếng sau khi dùng các thuốc trên, tiến hành tiêm thuốc:
    Ceftiofur: tiêm 1ml/6kg thể trọng.


    Thuốc có chứa Butaphosphan và vitamin B12: 0,1-0,15ml/con.

    Nên tiêm thuốc vào giữa 2 lần dùng thuốc bổ (thuốc bổ → tiêm kháng sinh à thuốc bổ).

    – Ngày thứ 3-5:

    Có thể bỏ Para C nếu đàn gà đã hết sốt.

    Ceftiofur: tiêm 1ml/6kg thể trọng.

    Flodoxi (florfenicol và doxycycline): hòa vào nước cho toàn đàn uống với liều 100g/8 tạ gà (dùng xen kẽ giữa 2 lần uống thuốc bổ).

    Lưu ý: sau khi điều trị tỉ lệ chết ngừng ngay nhưng sau 3 ngày vẫn còn tình trạng vẩy mỏ, khẹc trong vài ngày nữa.

    Như vậy, nếu thấy đàn gà có các triệu chứng hô hấp như khó thở, ho, khẹc, rướn cổ thở; ta mổ khám thấy phổi viêm có mủ, bã đậu hình ống trong phổi và 2 phế quản chính thì có thể gần như chắc chắn đó là bệnh ORT trên gà. Điều trị ORT ngoài việc sử dụng kháng sinh còn cần đặc biệt chú trọng đến việc bổ trợ sức khỏe cho toàn đàn.



    . Phân biệt bệnh ORT trên gà với ILT và IB
    Tên bệnh
    Phân biệt triệu chứng
    ORT– Triệu chứng: gà bị ngạt thở, khó thở nhưng không biểu hiện thành chu kỳ, không thành từng cơn như ILT mà gà ngáp liên tục và thường xuyên khó thở.
    – Bệnh tích:
    + bã đậu hình ống chứ không vón cục như ILT.
    + vị trí bã đậu: trong phổi, trong 2 ống phế quản chính và trong lòng khí quản (gà ho đẩy bã đậu từ dưới lên ống khí quản).
    + khí quản bình thường hoặc xung huyết nhẹ.
    Điển hình của ORT: bã đậu hình ống trong phổi và 2 phế quản chính.


    ILT
    (Viêm thanh khí quản truyền nhiễm)
    – Triệu chứng: khó thở, ngạt thở theo chu kỳ: nghĩa là khi khó thở, gà tím mào, há mồm, rướn dài cổ và khạc khạc ra đờm, thi thoảng có lẫn máu trong đờm. sau khi khạc đờm thì gà rùng mình, vẩy mỏ và mào tích lẫn lông lá trở lại bình thường (không tím tái).
    – Bệnh tích:
    + Bã đậu vón cục.
    + Vị trí bã đậu: ngã 3 thanh khí quản hoặc có thể bị trôi xuống khí quản.
    Như vậy: nếu thấy bã đậu có trong khí quản, ta nên dựa vào hình dạng của bã đậu (hình ống hay vón cục) để xác định nguyên nhân gây bệnh là ORT hay ILT.


    IB– Gà có khó thở nhưng không rướn cổ ngáp dài như ORT và ILT mà chỉ thở khò khè.
    – Khí quản có dịch nhầy, xuất huyết nặng nhìn rõ (không khô, ít dịch như ORT).



Chia sẻ trang này