Kim tự tháp Ai Cập: Công trình xây dựng đầy bí ẩn

Thảo luận trong 'Trang trí nội ngoại thất' bắt đầu bởi jenova12345, 14/9/18.

  1. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Kim tự tháp là cách gọi chung của các kiến trúc hình chóp có đáy là hình vuông và bốn mặt bên là tam giác đều. Với người Ai Cập cổ đại, Kim tự tháp là công trình được xây dựng và sử dụng như một lăng mộ dành cho nhà vua.


    [​IMG]
    Kim tự tháp nổi tiếng và bí ẩn nhất thế giới cổ đại.


    Cho đến nay, vẫn chưa có một câu trả lời chính thức, đầy đủ, chính xác nào cho những bí ẩn của Kim tự tháp. Không phải ngẫu nhiên mà trong 7 kỳ quan thế giới (cổ đại), Kim tự tháp Ai Cập đứng ở vị trí cao nhất và là kỳ quan cuối cùng còn sót lại cho đến ngày nay.


    Bao nhiêu nhân công tham gia xây dựng?


    Trong suốt nhiều thế kỷ qua, con người luôn tò mò làm thế nào người Ai Cập cổ xưa có thể xây dựng được Đại kim tự tháp? Bao nhiêu người tham gia xây dựng và họ là những ai?


    Dựa trên các tài liệu cổ và dựa trên ước tính khoa học cho biết, số lượng nhân công phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng dao động từ khoảng 20 – 100 nghìn người làm việc liên tục. Số lượng nhân công này sẽ được thay thế thường xuyên bởi xây dựng kim tự tháp là công việc rất khổ ải và làm sức khỏe những nô lệ này kiệt quệ.


    Đây là công trình kiến trúc cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số 7 kỳ quan thế giới cổ đại. Kim tự tháp Giza được xây dựng vào khoảng thời gian từ năm 2580 – 2560 trước công nguyên. Khi mới hoàn thành, công trình này có chiều cao là 149,6m. Theo ước tính, kim tự tháp Giza được xây từ 2,3 triệu khối đá, với tổng trọng lượng lên tới 5,9 triệu tấn. Khối lượng nhân công hẳn là rất khổng lồ được huy động để xây dựng khu lăng mộ này.


    Công trình quả là kỳ diệu khi đưa đá lên cao. Các nhân công phải đưa những hòn đá này vào đúng vị trí của nó. Tùy vào kim tự tháp, thứ tự sắp đặt các viên đá, họ sẽ tạo nên các cấu trúc bên trong khác nhau. Sau khi hoàn thành việc đặt các viên đá để tạo nên hình dáng của Kim tự tháp, người ta phải tiến hành trau chuốt mặt ngoài và mặt trong của Kim tự tháp. Công việc chau chuốt được thực hiện từ trên xuống dưới.


    Sử dụng nguyên liệu gì?


    Hàng ngàn năm kể từ khi được xây xong, công trình này vẫn làm ngạc nhiên người xem và nó là công trình nhân tạo cao nhất trên trái đất cho tới tận thời Trung Cổ. Các nhà sử học từ lâu đã tranh cãi cách mà người cổ đại có thể vận chuyển hàng trăm tấn nguyên liệu mỗi ngày đến địa điểm xây dựng. Quả là kỳ tích.


    Các Kim tháp được xây dựng từ các khối đá thiên nhiên nguyên khối, hoàn toàn không sử dụng các vật liệu liên kết như cách chúng ta dùng xi măng trong công nghệ xây dựng hiện đại. Các khối đá khổng lồ có khi gồm hàng chục tấn được đẽo gọt và ghép lại với nhau. Những khối đá đó vô cùng vững chắc, hoàn hảo và trường tồn với thời gian.


    Các khối đá được liên kết với nhau hoàn toàn dựa trên trọng lượng của chúng. Loại đá này không phải được lấy ngay ở gần kim tự tháp mà một số trường hợp, phải được vận chuyển từ những địa điểm cách xa nơi xây dựng hàng trăm thậm chí hàng ngàn ki-lô-mét. Cách mà người ta chuyển được những tảng đá nặng hàng tấn này vào những vị trí chính xác để hòan thành kim tự tháp còn là điều bí ẩn.


    Nguyên liệu được sử dụng được lấy chủ yếu từ mỏ đá nằm cách không xa Kim tự tháp này. Tuy nhiên, lớp đá bọc ngoài kim tự tháp phải lấy từ sông Tura về đến nơi xây dựng Kim tự tháp. Mỗi khối đá nặng chừng 2,5 – 8 tấn được di chuyển vượt sông, vượt hàng trăm ki-lô-mét để về đến nơi xây dựng. Quá trình này thật đáng kinh ngạc vì sử dụng hoàn toàn sức người. Họ sử dụng các thanh trượt bằng gỗ, kéo bằng dây thừng đến công trường.


    Hiệu ứng nhiệt ra sao?


    Qua nghiên cứu nhóm các nhà khoa học do Narimannov dẫn đầu đã đưa ra kết luận: Trong tòa kiến trúc kiểu Kim tự tháp, sự phân bố nhiệt độ, lưu thông không khí khác hẳn trong các công trình xây dựng khác. Trong Kim tự tháp, tốc độ bốc hơi của nước chanh, vật phẩm mau chóng bị mất thủy phần, khiến xác động vật dễ dàng biến thành xác khô không bị mục rữa. Không khí trong Kim tự tháp khô hanh, nước bốc hơi phân tán nhanh, khó bám vào về mặt kim loại nên các vật thể kim loại không bị ôxy hóa gây sét gỉ.


    Trên thực tế, người Ai Cập hiểu về hiệu ứng nhiệt và một số yếu tố mà cho đến nay, khoa học vẫn chưa thể làm rõ. Không gian bên trong các kim tự tháp đảm bảo điều kiện hoàn hảo về nhiệt độ, độ ẩm… để giúp bảo quản xác một cách tốt và hoàn hảo nhất. Và mọi lý giải chỉ mang tính tương đối, bí ẩn vẫn còn bỏ ngỏ.


    Tỷ lệ kích thước?


    Kim tự tháp cũng chứng minh là người Ai Cập đã biết đến số Pi. Kim tự tháp luôn có một tỷ lệ kích thước rất chuẩn dựa trên việc tính toán được số Pi. Đây được coi là tỷ lệ chuẩn và hiệu quả nhất để xây dựng những kiến trúc như thế này. Kim tự tháp cũng được làm chi li đến mức dù được ghép từ các khối đá lớn, riêng biệt nhưng chúng ta thậm chí không thể luồn một lưỡi dao sắc mảnh vào giữa hai phiến đá. Tại kim tự tháp Kheops, chiều cao chênh lệch giữa hai cạnh đối diện ở mức dưới 2cm – một độ chính xác nhất trong điều kiện người Ai Cập không có các máy móc đo đạc như hiện nay.


    Bên cạnh đó, còn phải kể đến sự hiểu biết đáng kinh ngạc về thiên văn, các chòm sao và các định hướng xuất sắc của người Ai Cập. Chỉ bằng cách quan sát các vì sao, họ đã định hướng một cách chính xác gần như tuyệt đối (sai số dưới 3 độ).


    Kim tự tháp là niềm tự hào của người dân Ai Cập. Sự vĩ đại của Kim tự tháp thể hiện sự sáng tạo của người dân Ai Cập mà cho đến nay, những bí ẩn của nó vẫn là một câu hỏi lớn của nhân loại.


    Khánh Phương
  2. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Được thiết kế bởi kiến trúc sư người Hà Lan Koen Olthuis cộng tác cùng Arkup – công ty tiên phong về nhà nổi, ngôi nhà như chiếc du thuyền sống động, sử dụng 100% năng lượng ngoài mạng điện lưới. Ngôi nhà còn có những tính năng quản lý rác thải, thu nước mưa và hệ thống làm sạch nước.

    Ngôi nhà có diện tích 404m2 được trang bị 30kW pin mặt trời, 1.000kWh pin lithium-ion và hệ thống cách nhiệt cao cấp. Ngôi nhà nổi cực kỳ an toàn nhờ có hệ thống tự nâng, có thể chịu được gió mạnh, lũ lụt và bão.

    Các chân thủy lực có độ dài 12m giúp ổn định ngôi nhà nổi và thậm chí có thể nhấc chúng ra khỏi mặt nước. Khi cần di chuyển ngôi nhà, hai động cơ điện 136 mã lực có thể đưa cấu trúc này đi xa 7 hải lý.

    Nước mưa được thu gom từ mái nhà và chứa trong các thân tàu. Sau đó, nước được tinh chế thông qua hệ thống làm sạch nhằm đảm bảo khả năng tự cung cấp và xử lý nước của ngôi nhà. Một mặt sàn có độ dốc thêm không gian ngoài trời tích hợp cho ngôi nhà. Không gian này được bao quanh bởi các tấm kính chống sốc nằm trong hệ thống truyền thông thông minh (bao gồm truyền hình vệ tính và wifi, LTE và VHF) cho phép ngôi nhà duy trì sự kết nối liên tục.nguồn: wiki go sofa
  3. jenova12345

    jenova12345 New Member

    1. Nội thất uốn lượn thay thế cho gỗ tái chế

    Trong năm mới, các chi tiết trong nhà sẽ hướng tới sự gợi cảm và quyến rũ hơn. Bởi vậy, những món đồ làm từ gỗ tái chế với các đường nét vuông vắn, thô ráp không còn thích hợp nữa. .............. .

    Ở phương Đông, Nhật Bản được coi là bậc thầy của phong cách tối giản trong kiến trúc.Phong cách này hiện diện trong phần lớn kiến trúc Nhật Bản, từ kiến trúc hiện đại cho tới những công trình mang âm hưởng truyền thống. Tính tối giản thể hiện nhất quán từ hình thức kiến trúc cho tới nội thất công trình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa một khuynh hướng hiện đại với những giá trị văn hoá – tinh thần truyền thống của Nhật Bản. Nhiều kiến trúc sư Nhật Bản thành công và ghi đậm dấu ấn với phong cách tối giản, chủ nghĩa tối giản trong kiến trúc, mà tiêu biểu là kiến trúc sư Tadao Ando. Những công trình của Tadao Ando thực sự là những tác phẩm nghệ thuật của không gian và ánh sáng, của sự giao hoà của kiến trúc và thiên nhiên, mang một cá tính đặc sắc và đầy sáng tạo.

    Phong cách tối giản xuất phát trong nghệ thuật phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, rõ nét nhất là trong nghệ thuật thị giác với các tác phẩm hội họa của Mark Rothko. Khái niệm này dần dần được mở rộng để bao hàm cả những khuynh hướng trong âm nhạc mà đặc điểm là sự lặp lại, điển hình là các tác phẩm của Steve Reich, Philip Glass và Terry Riley. Phong cách tối giản có nguồn gốc bắt rễ từ sự thuần khiết và cô đọng của chủ nghĩa Hiện đại, được kết hợp với chủ nghĩa Hậu hiện đại và được xem như phản ứng đối ngược lại với chủ nghĩa Biểu hiện trong nội dung cũng như trong bố cục tác phẩm.
  4. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Ý tưởng thiết kế sân vườn cho không gian nhà nhỏ

    Bạn muốn thiết kế sân vườn ngay trong ngôi nhà của mình nhưng tiếc thay diện tích nhà lại quá hẹp? Đừng lo lắng, chỉ cần một chút bí quyết và kinh nghiệm sắp xếp hợp lý, bạn sẽ có một không gian sân vườn lý tưởng và tuyệt đẹp. Nào cùng bắt tay xây dựng với những ý tưởng thiết kế sân vườn cho không gian nhà nhỏ nhé!

    Ngôi nhà nhỏ và thiết kế nội thât bên trong kiến trúc có diện tích nhỏ hẹp.

    Nếu như bạn có một góc nhỏđể dành cho thú vui cây cảnh của mình thì bạn hãy thử thiết kế sân vườn bằng cách sắp xếp những chiếc chậu trên những chiếc kệ nhiều tầng. Chúng không những giúp bạn tiết kiệm được không gian mà còn che đi những góc dư thừa đáng kể nữa.

    Không chỉ chăm chút cho sân vườn hẹp, mà việc thiết kế kiến trúc hoàn hảo của nhà hẹp khiến việc sắp xếp nội thất trở nên thật dễ dàng.wikipedia.org.............

    Với những kiến trúc nhà hẹp này, bạn có thể tạo nên một khu vườn đứng, hoặc vườn treo, vườn trên mái… Những chậu cây sân vườn được đặt đứng, hoặc treo dọc thành tường, mái là những giải pháp để tận dụng khoảng không gian trên mái, tạo những không gian cây xanh hoặc tiểu cảnh, nơi nghỉ ngơi và chăm sóc vườn…Vì diện tích nhỏ nên bạn chỉ nên sử dụng một loại cây duy nhất hoặc xen kẽ nhưng hạn chế.

    Hàng rào được điểm tô bằng những dàn hoa leo đẹp mắt thì khu vườn của bạn sẽ rộng ra rất nhiều. Đây có thể là một trong những ý tưởng thông minh khi thiết kế sân vườn nhỏ, chính những cây cảnh, hoa cỏ góp phần giải phóng không gian cho khu vườn nhà bạn.
  5. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Một khi được cải tạo và mở rộng, nhà kho đa năng sẽ cung cấp 16.500m2 diện tích dành cho văn phòng, trung tâm nghệ thuật, quán café, nơi cung cấp thông tin du lịch, các cửa hàng bán lẻ, nhà hàng và studio.

    Magasin 113 là một trong số nhà kho lâu đời còn tồn tại trong khu vực. Dự án tái sử dụng các yếu tố hỗn hợp cũ và mới, sẽ được sử dụng như một trung tâm cộng đồng cho một khu dân cư. Không gian bên trong được tổ chức thành các khu vực và được kết nối với thang máy vận chuyển hàng hóa lớn cùng một số loại cầu thang khác. Cầu thang ngoài trời ở mặt tiền hướng ra bờ sông, kết nối các ban công với quảng trường chính. Các kiến trúc sư có kế hoạch mở rộng tòa nhà bê tông bằng việc bổ sung 3 cấp độ mới của sàn gỗ. Một không gian công cộng mới sẽ được thêm vào cấu trúc hiện tại và mở rộng hơn.

    Mặt tiền và nội thất lát gạch ban đầu được lưu giữ và phục hồi. Mặt tiền bằng kính bao bọc xung quanh nhà kho bằng bê tông hiện có và phần khung gỗ mới mở rộng giúp cung cấp một lớp cách nhiệt và bảo vệ tòa nhà khỏi mưa gió.


    ............................................................................................................................................................
  6. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Hệ thống sưởi ấm mới nhất châu Âu từ Trung tâm Năng lượng thấp trên bán đảo Greenwich, London đã giảm được hơn 20.000 tấn carbon mỗi năm. Hãng kiến trúc C.F. Møller và họa sĩ người Anh, Conrad Shawcross đã thiết kế một cơ sở mang tính đột phá, được bao phủ bởi hàng trăm tấm có hình tam giác, gấp lại và xếp trên bề mặt công trình. Thiết kế trung tâm này đã đoạt Giải thưởng Kiến trúc GAGA năm nay cho việc sử dụng công nghệ thép mạ kẽm sáng tạo và hiệu quả.

    Trung tâm Năng lượng thấp Bán đảo Greenwich nằm ở lối vào bán đảo bên cạnh đường hầm Blackwall Tunnel Approach. Trung tâm này có hệ thống các nồi hơi và CHP (hệ thống kết hợp nhiệt độ và năng lượng) để cung cấp nhiệt lượng cho các Cty và nhà ở.

    Thiết kế ấn tượng của trung tâm này là tác phẩm của họa sĩ Conrad Shawcross. Họa sĩ đã thiết kế mặt tiền của tòa tháp ở độ cao 49m như một cách để truyền đạt cam kết về sử dụng năng lượng bền vững và năng lượng có giá phải chăng đến tất cả mọi người.


    ....................................................................................................................................
  7. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Tomislav " Tomo " Šokota (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1977) là một cầu thủ bóng đá đã nghỉ hưu của Croatia, chơi như một tiền đạo. Šokota là một tiền đạo mạnh mẽ nhưng sự nghiệp đầy hứa hẹn của anh đã bị lu mờ bởi những chấn thương thường xuyên, đặc biệt là vào nửa cuối những năm 2000. Šokota đã có màn trình diễn tốt nhất trong lần đánh vần đầu tiên với Dinamo Zagreb (1997 trận2001) và bên phía Bồ Đào Nha Benfica (2001 trận2005). Anh ấy cũng là một người quốc tế Croatia và đã được giới hạn tám lần trong chiến dịch Euro 2004 của đội.

    Sự nghiệp câu lạc bộ [ chỉnh sửa ]
    anh ấy có hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên từ câu lạc bộ trẻ NK Samobor vào năm 1997. Khi còn chơi cho Dinamo Zagreb, anh ấy đã trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Giải hạng nhất Croatia trong cả hai mùa 1999 1999 và 2000 2000, ghi lần lượt 21 và 20 bàn. Anh cũng đã xuất hiện nhiều lần tại UEFA Champions League với câu lạc bộ trong thời gian họ tham gia vòng bảng năm 1998 và 1999 của cuộc thi. Sau mùa giải 2000 thành công rất thành công của anh ấy, anh ấy đã được ký hợp đồng với Primeira Liga bên Benfica. [1] Trong thời gian ở bên Lisbon, anh ấy đã chơi phía trước cùng với tiền đạo người Na Uy Azar Karadas trong hai mùa.

    Đến cuối năm 2004, và sau khi từ chối tất cả các đề xuất gia hạn hợp đồng của Benfica, Šokota đã xuống hạng Benfica B, đội dự bị của câu lạc bộ, nơi cuối cùng anh chơi cho phần còn lại của mùa giải 200405. Vào ngày 25 tháng 1 năm 2004, anh chơi trong trận thắng 1 trận0 trước Vitória de Guimarães, một trận đấu bị lu mờ trước cái chết bi thảm của người đồng đội Miklós Fehér. Vào tháng 6 năm 2005, sau khi hợp đồng với Benfica hết hạn, anh gia nhập đối thủ FC Porto theo dạng chuyển nhượng tự do. [2]

    Anh đã bị chấn thương trong thời gian ở Bồ Đào Nha, đã trải qua bốn trận đấu lớn phẫu thuật. Khi còn ở FC Porto, chấn thương đầu tiên của anh là vào đầu mùa giải 200506 và anh chỉ trở lại một trận đấu chính thức vào ngày cuối cùng của giải VĐQG Bồ Đào Nha. Chẳng mấy chốc, trong giai đoạn tiền mùa giải 2006, anh đã gặp một chấn thương khác và kết quả là anh đã chơi trận Superliga đầu tiên với Estrela Amadora vào ngày 3 tháng 2 năm 2007 [3] Šokota trở lại câu lạc bộ quê hương Dinamo Zagreb vào tháng 3 năm 2007, chơi cho đến tháng 7 năm 2009. [4][5] Vào tháng 7 năm 2009 okota chuyển đến Liên đoàn Bỉ, ký hợp đồng với Lokeren. Sau một năm gắn bó với đội tuyển Bỉ, anh chuyển sang đội bóng của người Ol Oliaija Ljubljana cho mùa giải 201011.

    Sự nghiệp quốc tế [ chỉnh sửa ]
    Šokota ra mắt cho đội tuyển quốc gia Croatia trong trận đấu vòng loại Euro 2004 trận lượt về với trận đấu với Slovenia vào tháng 11 năm 2003 và cũng đã chơi cả ba trận đấu tại trận chung kết Euro 2004 ở Bồ Đào Nha trước khi đội Croatia thoát khỏi cuộc thi ở vòng bảng. [6][7] Sau UEFA Euro 2004, anh được triệu tập để trở thành một phần của đội tuyển Croatia chơi tại FIFA World Cup 2006 nhưng do một chấn thương rất nghiêm trọng mà anh ấy đã phải bỏ lỡ giải đấu. [8]

    Anh ấy đã giành được tổng cộng tám mũ và ghi hai bàn thắng cho Croatia. Các mục tiêu quốc tế của anh ấy là trong các trận giao hữu với Thổ Nhĩ Kỳ và Đan Mạch. [9]SpaceYourtime.PwYunadasi.TkBan SofaBanTra SofaBanTra Sofa Phong KhachBa NPhaN BaN Trang Dji Features USS ID-1536 / AP-24) là tàu vậnh bàn phấn bàn trang điểm tủ áo tủ áo gỗ tủ áo đẹp sofa sofa hcm click here visit herevisit hereKaen 1Kaen 2Kaen
  8. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Martin Schongauer (c. 1450 Bút53, Colmar – 2 tháng 2 năm 1491, Breisach), còn được gọi là Martin Schon ("Martin beautiful") hoặc "Hübsch Martin ("Martin xinh đẹp") bởi những người cùng thời, [2][3] là một thợ khắc và họa sĩ Alsatian. Ông là nhà in quan trọng nhất ở phía bắc dãy Alps trước Albrecht Dürer, người đã thu thập tác phẩm của mình. Ông là họa sĩ đầu tiên trở thành một thợ chạm khắc quan trọng, mặc dù ông dường như có nền tảng gia đình và được đào tạo về thợ kim hoàn, điều thường thấy đối với các thợ khắc đầu tiên. [4]

    Phần lớn sản xuất còn sót lại của Schongau là 116 bản khắc, [5]monogram nhưng không có ngày nào, [6] vốn nổi tiếng không chỉ ở Đức, mà còn ở Ý và thậm chí còn được chuyển đến Anh và Tây Ban Nha. [7]Vasari nói rằng Michelangelo đã sao chép một trong những bản khắc của mình, trong Bản dùng thử của Saint Anthony . Phong cách của ông cho thấy không có dấu vết của ảnh hưởng của Ý, nhưng một tác phẩm gothic rất rõ ràng và có tổ chức, được vẽ từ cả bức tranh Đức và Hà Lan đầu.

    Học bổng gần đây, dựa trên tác phẩm của Max Lehrs, thuộc tính 116 bản khắc cho anh ta, với nhiều bản sao cũng được sao chép bởi các nghệ sĩ khác (bao gồm cả chữ lồng của anh ta), như thường thấy trong thời kỳ này. Israhel van Meckenem đương đại của ông đã thực hiện các bản sao của 58 bản khắc, chính xác là một nửa sản lượng của Schongauer, và lấy các họa tiết hoặc hình vẽ từ nhiều hơn, cũng như khắc một số bản vẽ hiện đã bị mất. [8] ] Có một số bức vẽ đẹp, bao gồm những bức có niên đại và được ký bằng chữ lồng của anh ấy, và một vài bức tranh còn sót lại trong dầu và bích họa.

    Tiểu sử [ chỉnh sửa ]
    [​IMG]
    Schongauer sinh khoảng 1450 mật53 ở Colmar, [9] Alsace, người thứ ba trong bốn hoặc năm người con trai của Caspar Schongauer, [10] và người bảo trợ từ Augsburg, người chuyển đến Colmar khoảng 1440; Caspar trở thành bậc thầy của hội thợ kim hoàn vào năm 1445, có lẽ phải cư trú trong 5 năm. [11] Ông có lẽ đã dạy cho con trai mình nghệ thuật khắc, đó là một kỹ năng riêng biệt và khó sử dụng mà các thợ kim hoàn đã sử dụng từ lâu trên các kim loại. 19659016] Hai anh em của ông làm thợ kim hoàn ở Colmar, trong khi một người khác cũng trở thành họa sĩ. [13] Colmar hiện đang ở Pháp nhưng sau đó là một phần của Đế chế La Mã thần thánh và nói tiếng Đức.

    Hầu hết bất thường đối với một nghệ sĩ Gô-tích hoặc Phục hưng, anh ta được gửi đến trường đại học, có lẽ với ý định biến anh ta thành một linh mục hoặc luật sư, và trúng tuyển tại Đại học Leipzig vào năm 1465, [14]nhưng dường như đã rời đi sau đó một năm. Vào thời điểm này, sinh viên đại học thường bắt đầu ở tuổi mười hai hoặc mười ba. [15] Theo truyền thống, ông được cho là đã được đào tạo như một thợ khắc bởi Master ES, nhưng các học giả bây giờ nghi ngờ điều này, một phần vì các bản in của Schongau đã mất một thời gian để phát triển kỹ thuật những tiến bộ mà một học trò của Master ES sẽ được dạy. [16]

    Ông được cho là đã được đào tạo như một họa sĩ với bậc thầy chính của Colmar Caspar Isenmann (d. 1472), một người hàng xóm của ông cha mẹ, người chịu ảnh hưởng rất lớn từ bức tranh Rogier van der Weyden và những người khác ở Hà Lan, và có lẽ đã nghiên cứu ở Hà Lan, và vài bức ảnh còn sót lại của Schongauer phản ánh điều này. Đây có lẽ là vào khoảng năm 1466 và 1469; [17] ông được ghi nhận trở lại Colmar vào năm 1469. [18] Anh trai của ông Ludwig Schongauer có lẽ đã đi trước ông trong xưởng.

    Các bản khắc trước đó của ông cũng cho thấy những ảnh hưởng rõ ràng từ một số họa sĩ người Hà Lan thời kỳ đầu, cho thấy ông đã theo mô hình truyền thống của một wanderjahre đi du lịch vào cuối khóa đào tạo. Một bản vẽ, ngày 1469, là một bản sao của hình Chúa Kitô trong Rogier van der Weyden Bàn thờ Beaune có lẽ được thực hiện trước bức tranh. [19] Nhiều chi tiết khác nhau về trang phục và các loài thực vật kỳ lạ trong Nghỉ ngơi trên chuyến bay vào Ai Cập đã đề nghị với một số học giả rằng ông cũng đã đến thăm Tây Ban Nha, và có thể cả Bồ Đào Nha. [20]

    Ông trở lại Colmar và thành lập một hội thảo bằng cách Năm 1471, khi các khoản thanh toán được thực hiện cho một bàn thờ cho nhà thờ Dominican ở đó, hiện đang ở trong bảo tàng và được coi là một xưởng sản xuất. [21] Madonna Madonna trong Vườn hồng được trưng bày từ lâu trong nhà thờ ở Colmar nó được tạo ra, nhưng đã chuyển đến nhà thờ Dominican gần đó vào năm 1973 [22]là ngày 1473 (bức tranh duy nhất của ông). Phong cách của nó tương ứng với các bản khắc đầu tiên của ông, được đặt theo trình tự được thống nhất rộng rãi dựa trên kỹ thuật và phong cách của họ, cả hai đều cho thấy sự phát triển đáng kể. [23] Trong một số trường hợp, terminus ante quem là được cung cấp bởi các bản sao trên các phương tiện truyền thông khác nhau có thể có niên đại. [24]

    Kinh tế học về in ấn thế kỷ mười lăm không rõ ràng, và mặc dù các bản in của ông đã lan truyền rộng rãi khắp châu Âu, thu nhập từ "ơn gọi lớn" của ông về hội họa. [25]

    Ông qua đời ở Breisach năm 1491, có lẽ trước khi bước sang tuổi bốn mươi. Ông đã tham gia từ năm 1488 trong bức tranh lớn Phán quyết cuối cùng trong nhà thờ ở đó, [26] và được ghi nhận là một công dân ở đó vào tháng 6 năm 1489. [27] Đây là bức tranh tường lớn nhất ở phía bắc dãy Alps , và không đầy đủ khi ông qua đời. [28]

    Năm sau đó, Dürer, vào wanderjahre đi đến Colmar không gặp ông, chỉ để thấy ông đã chết. Dürer là một người ngưỡng mộ, người đã thu thập các bản vẽ của mình và không nghi ngờ gì về bản in. Bản in riêng của ông về Chuyến bay vào Ai Cập trong sê-ri Life of the Virgin bao gồm hai cây kỳ lạ giống như Schongauer, như một hommage . ] Ở Đức Dürer, người có bản in được biết đến trong thập kỷ sau đó, được coi là nhà lãnh đạo tiếp theo của truyền thống mà Schongauer đã thống trị trong hai mươi năm. [30]

    [​IMG]


    Madonna trong Vườn hồng trong khung khắc, ngày 1473. [19659037] Các học trò của ông bao gồm Hans Burgkmair the Elder, họa sĩ và nhà thiết kế đồ gỗ có trụ sở tại Augsburg (nhưng không khắc), người đã ở cùng ông từ năm 1488 đến 1490. [31] Bức chân dung được vẽ của Schongauer, với chiếc áo khoác trên đầu còn lại, là không bình thường đối với một họa sĩ thế kỷ mười lăm, nhưng bảng điều khiển ở Munich dường như được làm tốt sau khi ông qua đời, và có lẽ là một bản sao của một bức vẽ hoặc bức tranh được thực hiện vào ngày trên bức tranh, 1483. Nó được quy cho Hans Burgkmair the Elder, và bản gốc bị mất có thể là của cha anh, Thoman Burgkma ir, người rất hợp lý đã gặp Schongauer ở Augsburg, nơi Schongauer được ghi nhận là ít nhất là đến thăm. [32]


    Một học sinh khác của Schongauer, họa sĩ Urbain Huter, từ lâu đã được coi là tác giả chính của họa sĩ. Buhl Altarture, một công trình rất gần với thiết kế và thực hiện cả các bản khắc của Schongauer và sản xuất xưởng vẽ tranh của Schongauer. Một số thợ khắc có bản in thường là bản sao của Schongauer, và có các tác phẩm gốc gần với phong cách của anh ta, được cho là đã là học trò của anh ta. Chúng bao gồm Master tức là, được quy cho 55 bản in của Lehrs, 31 bản của Master, Master BM và Master AG, được quy cho 34 bản in, 13 bản của chủ nhân. [33]

    Tranh [ chỉnh sửa]]
    Chỉ có một vài bức tranh của ông tồn tại, đáng chú ý nhất làMadonna trong Vườn hồngđược vẽ cho Nhà thờ St Martin, Colmar và ngày nay được trưng bày trong nhà thờ Dominican gần đó. [34] Đây là một chủ đề của Đức, đặc biệt liên quan đến Cologne và Stephan Lochner, nhưng Schongauer cho nó một sự đối xử rất nhiều theo phong cách Hà Lan. Nó đã được cắt xuống ở phía trên và hai bên để phù hợp với khung chạm khắc công phu sau này


    3Kaen 4Kaen 5Kaen 6Kaen 7Kaen kaen 1kaen 2kaen 3kaen 4kaen 51kaen 63kaen 75kaen 87sasds92891128913289152891728
  9. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Considine xuất hiện trong phim kinh dị Tây Ban Nha Bosque de Sombras . Chính trong quá trình quay phim này, Considine đã viết lại những gì sau này trở thành tác phẩm đầu tay ngắn của anh ấy, Dog Altogether . Considine tuyên bố rằng chính bạn diễn Gary Oldman đã giúp anh tự tin thực hiện bộ phim, điều này dẫn đến việc anh cảm ơn Oldman trong bài phát biểu chấp nhận BAFTA của mình. Năm 2006, anh đóng vai chính trong Pu-239 với vai Timofey Berezin, một công nhân tại một cơ sở hạt nhân của Nga, người đã tiếp xúc với một lượng phóng xạ gây chết người. Năm 2007, Considine đã hạ cánh trong hai bộ phim kinh phí lớn nổi tiếng; bộ phim thứ ba trong sê-ri phim Bourne Trilogy The Bourne Ultimatum trong đó ông đóng vai phóng viên báo Simon Ross, [2] và Hot Fuzz trong đó anh ấy đã có vai diễn hài đầu tiên là DS Andy Wainwright. Năm 2008, Considine đóng vai chính trong My Zinc Bed một bộ phim truyền hình cho BBC / HBO. Năm 2009, anh đóng vai Peter Hunter trong miniseries Channel 4 Red Red: 1980 dựa trên tiểu thuyết của David Hòa bình, và một sự hợp tác khác với Meadows, Le Donk & Scor-zay-zee một bộ phim không được công bố, được quảng cáo và quay trong năm ngày với chi phí 48.000 bảng, và được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Edinburgh. [4]

    Năm 2011, được xem trong một bộ phim chuyển thể từ cuốn sách của Joe Dunthorne Tàu ngầm mà Richard Ayoade đã viết và đạo diễn. [8]Cũng trong năm 2011, Considine xuất hiện với tư cách là Porter Nash trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết Ken Bruen , cũng như đóng vai chính là Jack Wh Rich trong Những nghi ngờ của ông Wh Rich được viết bởi Helen Edmundson và Neil McKay. Cùng năm đó, Considine đã được đoàn tụ trong một thời gian ngắn với một trong những người bạn diễn A Room for Romeo Brass nữ diễn viên đoạt giải BAFTA, Vicky McClure. Cả hai đã chia sẻ màn hình trong một quảng cáo trên truyền hình để quảng bá cho "Phim cho mùa trọn đời". Quảng cáo đã được quay trong hai ngày tại Tây Ban Nha. [9]

    Considine đã liên tục hiển thị một sự tinh tế cho các điểm nhấn khu vực và thế giới; cùng với Gypsy Midlander Morell trong vai trò đầu tiên của mình vào năm 1999 Một căn phòng cho Romeo Brass Considine đã đóng vai một người London trong Bị ném đá Những nghi ngờ của ông Wh Rich Công nhân nhà máy hạt nhân Nga trong Pu-239 một người xứ Wales trong Tàu ngầm Happy Now Pride một người nhập cư Ailen trong Ở Mỹ một người Mancunian trong Red Red một Yorkshireman trong Mùa hè tình yêu của tôi một người Mỹ trong Cry of the Owl Người đàn ông và một người miền Tây trong Fuzz nóng . Anh ấy đã xuất hiện trong một số video âm nhạc, đáng chú ý nhất là "God Put A Smile Over Your Face" (2002) của Coldplay và Moloko's "Cảm giác quen thuộc" (2003), [6] cũng như theo dõi những chú khỉ Bắc Cực "Rời đi trước khi ánh đèn đến Vào "(2006), trong đó ông đã viết video. [4]

    Considine đóng vai chính trong The End End là một trong" Năm người lính ngự lâm "đánh bại một" sử thi " "Quán rượu bò. Considine trước đây đã làm việc với các diễn viên và đoàn làm phim trên Hot Fuzz (2007). Bộ phim được phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày 19 tháng 7 năm 2013 và Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng 8 năm 2013. [10] Vào tháng 8 năm 2015, Considine xác nhận rằng ông đang viết kịch bản cho bộ phimJourneyman trong đó Anh cũng sẽ sao. Nó là một tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết phi hư cấu The Years of the Locust của Jon Hotten, câu chuyện có thật về một nhà quảng bá quyền anh xã hội học, Fat Rick Parker, và mối quan hệ cam chịu của anh ta với võ sĩ ngây thơ Tim Anderson. 19659030] Considine cũng đang viết một bộ phim từ một câu chuyện ma có tên The Leaning [12] với kế hoạch chỉ đạo cả hai bộ phim. Anh ta sẽ tiếp tục làm việc với Shane Meadows trên King of the Gypsies một bộ phim tiểu sử về chiến binh tay trần Bartley Gorman, người mà Considine đã gặp và làm bạn với nhau khi làm nhiếp ảnh gia. [2] Năm 2015, Considine đã được thông báo là đã được đóng cùng Glenn Close, Gemma Arterton trong bộ phim về thây ma ở Anh trongCô gái với tất cả những món quà dựa trên tiểu thuyết năm 2014 Cô gái với tất cả những món quà của MR Carey. [13]

    Vào ngày 4 tháng 10 năm 2015, thông qua trang Twitter chính thức của Considine rằng anh ta sắp tham gia vào loạt diễn viên gangster do Birmingham thiết lập Blindy Blinders [19659034] nhìn thấy anh ấy đoàn tụ với She Who mang quà tặng đạo diễn Colm McCarthy.

    Vào tháng 4 năm 2017, Considine đã ra mắt sân khấu chuyên nghiệp vào năm Người lái đò tại Nhà hát Tòa án Hoàng gia, trước khi chuyển đến Nhà hát Gielgud ở West End. [15][16][17] Đây là vở kịch bán chạy nhất trong lịch sử Nhà hát Hoàng gia.


    91928921289232892528927289272892728927289272892728927289272892728927289272892728927289272892728927289272892728927289289289289289289289289289289289289289289289272727272727272727272727272727272727272727272727272727272727
  10. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Alois Ferdinand Hrdlička [1] sau năm 1918 đổi thành Aleš Hrdlička (29 tháng 3 năm 1869 – 5 tháng 9 năm 1943), là một nhà nhân chủng học người Séc sống ở Hoa Kỳ. đã chuyển đến đó vào năm 1881. Ông được sinh ra ở Humpolec, Bohemia (ngày nay ở Cộng hòa Séc).

    Cuộc sống và sự nghiệp [ chỉnh sửa ]
    Mẹ của ông, Karolína Hrdličková, tự giáo dục con mình; kỹ năng và kiến thức của anh ấy đã có thể bỏ qua cấp tiểu học. Gia đình di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1881, khi anh mới 13 tuổi. Sau khi đến nơi, công việc hứa hẹn chỉ mang đến sự thất vọng cho người cha bắt đầu làm việc trong một nhà máy sản xuất xì gà cùng với Alois tuổi teen để kiếm sống cho gia đình với 6 đứa trẻ khác. Chàng trai trẻ Hrdlička đã tham gia các khóa học buổi tối để cải thiện tiếng Anh của mình, và vào năm 18 tuổi, anh quyết định học ngành y kể từ khi bị bệnh lao và trải qua những khó khăn điều trị trong thời gian đó. Năm 1889, Hrdlička bắt đầu nghiên cứu tại Eclectic Medical College và sau đó tiếp tục tại Homeopatic College ở New York. Để hoàn thành nghiên cứu y học của mình, Hrdlička đã tham dự kỳ thi ở Baltimore vào năm 1894. Ban đầu, ông làm việc tại trại tị nạn Middletown vì bị ảnh hưởng tinh thần khi ông học về nhân trắc học. Năm 1896, Hrdlička rời đến Paris, nơi ông bắt đầu làm việc như một nhà nhân chủng học với các chuyên gia khác sau đó thành lập lĩnh vực khoa học.

    Trong khoảng thời gian từ 1898 đến 1903, trong chuyến du hành khoa học trên khắp nước Mỹ, Hrdlička đã trở thành nhà khoa học đầu tiên phát hiện và ghi lại lý thuyết về sự thuộc địa hóa của con người ở lục địa Mỹ từ Đông Á, mà ông tuyên bố chỉ cách đây khoảng 3.000 năm. Ông lập luận rằng người Ấn Độ di cư qua eo biển Bering từ châu Á, ủng hộ lý thuyết này với nghiên cứu chi tiết về bộ xương cũng như nghiên cứu về người dân ở Mông Cổ, Tây Tạng, Siberia, Alaska và Aleutian. Những phát hiện này đã ủng hộ lập luận mà sau đó đóng góp cho lý thuyết về nguồn gốc toàn cầu của loài người đã được trao giải thưởng Thomas Henry Huxley năm 1927.

    Aleš Hrdlička thành lập và trở thành người phụ trách đầu tiên về nhân học vật lý của Bảo tàng Quốc gia Hoa Kỳ, nay là Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Viện Smithsonian năm 1903. Ông là người sáng lập Tạp chí Nhân học Vật lý Hoa Kỳ . [2] Sau khi ông từ chức, số tập tạp chí, đạt đến Tập 29 năm 1942, đã được khởi động lại tại Tập 1 năm 1943.

    Hrdlička đã tham gia kiểm tra hộp sọ để xác định rằng nó thuộc về Adolph Ruth, người bị giật gân trên báo chí khi Ruth mất tích ở Arizona vào năm 1931 để tìm kiếm Mỏ vàng huyền thoại của Lost Dutchman.

    Ông luôn tài trợ cho những người nước ngoài đồng hương của mình và cũng quyên tặng tổ chức nhân chủng học ở Prague, được thành lập vào năm 1930 bởi nhà đồng thám hiểm Jindřich Matiegka [cs]tại quốc gia của ông (sau này được đặt tên) .

    Giả thuyết châu Âu [ chỉnh sửa ]
    [​IMG]
    Hrdlička quan tâm đến nguồn gốc của con người. Ông là một nhà phê bình về sự tiến hóa vượn người cũng như giả thuyết châu Á, vì ông tuyên bố có rất ít bằng chứng để tiếp tục cho những lý thuyết đó. Ông đã bác bỏ những phát hiện như Ramapithecus được hầu hết các nhà khoa học gán cho là vượn nhân hình, thay vào đó họ tin rằng chúng chẳng khác gì vượn hóa thạch, không liên quan đến tổ tiên của loài người. [3] [1945907] [5]

    Trong một bài giảng về "Nguồn gốc của con người", được gửi cho Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Hoa Kỳ, tại Cincinnati, Ohio, Hrdlička nói rằng cái nôi của con người không phải ở miền Trung Châu Á nhưng ở Trung Âu, vì châu Âu là địa điểm được biết đến sớm nhất nơi tìm thấy bộ xương người.

    Hrdlička gần như đơn độc trong quan điểm của mình. Giả thuyết châu Âu rơi vào suy thoái và hiện được coi là một lý thuyết khoa học lỗi thời đã được thay thế bằng giả thuyết Đa quốc gia và giả thuyết Out of Africa. [6]

    Tranh cãi và chỉ trích [ chỉnh sửa Gần đây, các phương pháp của Hrdlička đã bị xem xét và chỉ trích liên quan đến việc ông đối xử với hài cốt người Mỹ bản địa. Một bài báo của AP, "Những người Ấn Độ còn sót lại từ Bảo tàng chôn cất NY" từ ngày 17 tháng 11 năm 2009, kể lại nghiên cứu của ông về các chủng tộc bộ lạc ở Mexico, bao gồm cả việc chặt đầu các nạn nhân vẫn đang phân hủy của một người Ấn Độ Yaqui và loại bỏ xác thịt khỏi người Ấn Độ. hộp sọ như là một phần của những nghiên cứu này [7]. Anh ta cũng ném xác của một đứa trẻ sơ sinh được tìm thấy trong một cái nôi nhưng đã chuyển tiếp cổ vật này cùng với những hộp sọ và hài cốt khác đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ của New York. Trong khi những thực hành này không mâu thuẫn với các nhà dân tộc học và nhà nghiên cứu nguồn gốc con người khác trong thời đại đó, sự phân nhánh đạo đức và đạo đức của những thực hành nghiên cứu này vẫn tiếp tục được tranh luận ngày hôm nay. Công việc của ông cũng có liên quan đến sự phát triển của luật ưu sinh học của Mỹ. [8]


    Ngày 6 tháng 8 năm 1896 Hrdlička kết hôn với Marie Stickler người Mỹ gốc Đức (người mà ông đã tán tỉnh từ năm 1892), con gái của Phillip Jakob Strickler từ Edenkoben, Bavaria, người di cư đến Manhattan vào năm 1855. [9] Marie qua đời năm 1918 do biến chứng của bệnh tiểu đường. Vào mùa hè năm 1920 Hrdlička kết hôn lần thứ hai, vợ chưa cưới của anh là một phụ nữ người Mỹ gốc Đức khác, Wilhelmina Mina "Mansfield.
  11. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Ngày nay Bribir là một địa điểm khảo cổ học trong nội địa Dalmatia. Nó nằm trên một ngọn đồi bằng phẳng cách Skradin khoảng mười lăm km về phía tây bắc, gần con đường Zadar cũ đi qua Benkovac. Dưới những tảng đá dốc đứng ở phía tây của nó có nguồn suối Bribirčica và từ đây, cánh đồng Bribir-Ostrovica giàu có và màu mỡ trải rộng. Ngọn đồi Bribir, một nơi lý tưởng để kiểm soát lãnh thổ xung quanh, là một khu vực hoàn hảo để sinh sống. Người nắm giữ nó có quyền kiểm soát tất cả các con đường và cách tiếp cận từ biển đến nội địa, biến nó thành một khu định cư lý tưởng.

    Trong thời kỳ La Mã Bribir, được gọi là Varvaria, có tư cách đô thị và là trung tâm của một trong mười bốn quận của Libya. Hoàng đế Byzantine Constantine porphyrogenitus đã viết vào thế kỷ thứ 10 về người Croats định cư ở Dalmatia vào thế kỷ thứ 7 và mô tả cách họ tổ chức đất nước của họ thành mười một quận (zupanias), một trong số đó là Breberi cái cũ Varvaria (Moravcsik & Jenkins, biên tập 1967). Một dãy đồi ngăn cách nó với lãnh thổ Knin ở phía bắc và về phía nam giáp với Skradin. Nó đã được tổ chức bởi một loại tốt đẹp mà trong các tài liệu đồng loại được gọi là quý tộc, danh hài hoặc hoàng tử Breberienses (quý tộc, bá tước hay nhà cai trị Breber, "knezovi Bribirski" trong tiếng Croatia).Breberienses thuộc về bộ lạc Šubić, một trong số mười hai thành lập quốc gia Croatia trong thời trung cổ và là một trong sáu người mà Ban, hay cha đẻ, được chọn.

    Mladen III Bribirski là thành viên đầu tiên của dòng chính của Nhà Šubić tự gọi mình là Šubić. [8]

    Huy hiệu ban đầu [ chỉnh sửa ]
    vũ khí của tộc quý tộc này là một cánh tranh luận trên một chiếc khiên. Mào là một nhánh của barberry. Người Argentina và những con la là màu sắc của những người tử tế Croatia đứng về phía đảng giáo hoàng như lãnh chúa của Krk (trước khi họ cầm khiên của Roman Frangipani), Gusić, Morović và Hrvatinić, và vẫn là những người Croatia .

    Thiết bị này có thể được lấy từ tiêu chuẩn khiên có cánh của hoàng gia, một bài được giữ bởi Budez postelnic berberensis jupanus (1069). Cánh là phổ biến, đặc biệt là một mào, trong huy hiệu Croatia sau này. Điều này có thể được giải thích bởi rất nhiều gia đình của Zrins mạnh mẽ, người đã giữ thiết bị Breber trong huy hiệu của họ.

    Dòng thời gian [ chỉnh sửa ]
    Trong các cuốn sách lịch sử gần đây, bất cứ khi nào các thành viên của loại này được đề cập liên quan đến vai trò nổi bật của họ trong thế kỷ 13 và 14, họ của Šubić được trao cho họ. bởi nhà sử học. Đây không phải là cách mà các thành viên tự gọi mình vào thời điểm đó. Trong thời trung cổ, mỗi người đàn ông ở Croatia đều có bốn tên: tên được đặt trong lễ rửa tội, tên bảo trợ, tên của anh ta cũng là tên của khu định cư mà anh ta sống và liên kết bộ lạc của anh ta (Jirecek, 1967). Khi, với sự ra đời của chế độ phong kiến, vua bela đã xác nhận sự tử tế trong việc sở hữu Breber (1251), cái tên này một lần nữa sẽ được sử dụng để xác định chúng kể từ đó, phong tục này được gọi theo tên của một người sợ hãi hàng đầu. Do đó, trong giai đoạn từ năm 1069 đến khi người Thổ Nhĩ Kỳ phá hủy quận vào năm 1520, nhiều nhân vật của thị tộc xuất hiện từ các tài liệu gốc Latinh đủ điều kiện là de Breberio trước tên Kitô giáo và người bảo trợ của họ ; chỉ hiếm khi họ thêm liên kết bộ lạc của họ.

    Con dấu của Paul I Šubić của Bribir (sinh năm 1312), nhân vật vĩ đại nhất của thị tộc, có dòng chữ sau đây:

    + S (IGILLVM) PAVLI BREBERIENSIS BANI TOCIVS SCLAVONIE

    có:

    PAVLVS DE BREBERIO BANVS CROATORVM D [OMI] N [V] S ET BOSNE

    Do đó, trong tên thô tục, họ sẽ là Breber hoặc một số biến thể (Breberić, Breber v.v.). Các nhà sử học Croatia uyên bác vào thế kỷ 19, người đã viết những cuốn sách lịch sử đầu tiên cho công chúng đã chọn ubić, với tinh thần dân tộc hăng hái thời bấy giờ, nghe có vẻ yên tâm Slavic so với Breber.

    [​IMG]
    Trong triều đại của Demetrius Zvonimir (1075 Hóa1089), thời kỳ hoàng kim huyền thoại của Vương quốc Croatia, các tòa án cao nhất củapostelnik ( đến camerarius ] tepizo ( đến palatinus ) được tổ chức bởiBudez Dominicus cả hai dòng dõi. Trong thế kỷ 13 và 14, Brebers đã nhiều lần được kêu gọi để đảm nhiệm chức vụ đếm trong các thị trấn của Split, Trogir, Skradin và Omiš. Trong các tài liệu, có thể xác định sáu nhánh khác nhau của tộc Breber. Người nổi tiếng nhất trong số đó là người xuất thân từ iupanus Miroslaus Brebriensis, filius Bogdanizi(1184). Cháu trai của ông Paul, được đề cập ở trên, đã đạt đến đỉnh cao quyền lực vào cuối thế kỷ 13. Ông là Ban của Croatia và Dalmatia, quyền cai trị của ông mở rộng tới Bosnia và cùng với anh em của mình, ông kiểm soát các thành phố hàng hải của Dalmatia. Ở những vùng này, ông là nhà vô địch của Giáo hoàng và là công cụ trong việc đưa Charles, con đầu lòng của Quốc vương thành Naples, lên ngai vàng của Hungary và Croatia. Ông có liên quan đến Quốc vương của thành phố Naples, Quốc vương Serbia, lãnh chúa Da Camino của Treviso, và những người bảo trợ Tiepolo và Dandolo của Venice. Khi ông qua đời vào năm 1312, con trai cả của ông, Mladen đã cố gắng duy trì sự nắm giữ của các gia tộc Croatia khác, nhưng không thành công và từng chút một bị mất đất, lâu đài và thị trấn.

    Từ chối [ chỉnh sửa ]
    Bên cạnh những nhánh đặc biệt đi theo cách riêng của chúng, rất nhiều thân nhân tiếp tục tuân theo Breber cổ đại. Vào năm 1324 khi quyền công dân của Zadar được trao cho domini de Briberio 190 thành viên của gia tộc đã tự giới thiệu mình để đầu tư. Năm 1353, Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman đã vượt qua Dardanelles và bắt đầu cuộc xâm chiếm châu Âu. Vào thế kỷ 15, Bosnia đã là một pashalik từ đó các cuộc tấn công sẽ được tiến hành vào Croatia-Dalmatia. Các chế độ phong kiến và các chiến binh gia tộc không có hy vọng chống lại cỗ máy chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ và đã gặp số phận của họ trong trận chiến Krbavsko Polje (1493). Lâu đài Breber bị bắt ở mặt trận giữa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary và Venice và đến năm 1520 đã trở thành một đống rác thải hoang tàn. Tin tức mới nhất đưa cho đồng chí Breberienses vẫn còn ở vị trí cổ xưa của họ là trong hội đồng giáo phận của Skradin được tổ chức vào thời của Đức Tổng Giám mục (1490, 150150). Khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ đã di dời một phần lớn dân số Dalmatia-Croatia. Một số người tìm nơi ẩn náu ở các thành phố của bờ biển, một số vượt biển đến Ý, những người khác, đặc biệt là những người thuộc giới quý tộc, tái định cư ở phía bắc trong phần Slavonia vẫn còn dưới vương miện của Hungary-Croatia. Tổ chức thị tộc của họ chắc chắn đã phá vỡ, các gia đình Breber độc thân đã định cư ở nhiều nơi trong quận Zagreb (Comitatus Zagrabiensis) (Adamcek & Kampus, 1976). Vào nửa sau của thế kỷ 16, chúng ta tìm thấy một hạt nhân định cư ở Turopolje ( Campus Zagrabiensis ) nơi họ gia nhập cộng đồng tự do của các quý tộc nhỏ hơn ( quý tộc unius sessionis ). Một nhóm khác được thành lập tại Stubica và những nơi khác trong vùng Zagorje, nơi có một chi nhánh, bá tước Jankovic Bribirsky, sở hữu trang viên Horvatska vào thế kỷ 17 và vẫn là một trong những gia đình địa phương nổi tiếng cho đến thế kỷ 20. Các gia đình Breber vẫn đang sống ở những nơi này cho đến ngày nay.

    Chi nhánh Zrinski [ chỉnh sửa ]
    Vào năm 1347, Vua Louis I của Hungary đã trao cho nhánh này của Brebers, trong những người của Bá tước Gregory và Bá tước George (Grgur và Juraj ở Croatia ), tương ứng là con trai và cháu trai của Ban Paul, Lâu đài Zrin (để đổi lấy lâu đài chiến lược quan trọng của Ostrovica, tổ chức cuối cùng của họ bên ngoài Bribir tổ tiên. Chi nhánh này sẽ được biết đến bởi họ của Zrin (nhưng cũng khác nhau a Zrinio, Zrinski, Zrínyi, Zrini, de Serin, Sdrin theo cách sử dụng tiếng Latin, Croatia, Hungary, Pháp hoặc Ý) đã vươn lên đỉnh cao của danh tiếng và vinh quang với Bá tước Nikola IV (1508 thép1566), người anh hùng của Szigetvár, và với Bá tước Nikola VII (1620 Tiết1664), tai họa của Ottoman.

    [​IMG]
    Mark Forstall (hay Marcus Forstall), thư ký của người sau, đã biên soạn một lịch sử của Zrins, truy tìm nó trở lại Brebers, đến bộ lạc Šubić và từ đó đến La Mã gens Sulpicia mà theo Suetonius, xuất phát từ tình yêu của thần Zeus dành cho Pasiphaë. Ngay cả nhà thông thái lừng lẫy Charles Ducange (1610 trừ1688) cũng đề cập đến những nguồn gốc tuyệt vời này trong tác phẩm Illyrici Veteris et Novi của ông, tr. 237:​
  12. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Libuše ( giúp · thông tin ) hoặc, trong lịch sử Lubossa [2] là một tổ tiên huyền thoại của triều đại Přemyslid và toàn thể người Séc. Theo truyền thuyết, cô là người trẻ nhất nhưng khôn ngoan nhất trong ba chị em, người đã trở thành hoàng hậu sau khi cha họ qua đời; cô kết hôn với một người cày thuê, Přemysl, người mà cô đã thành lập triều đại Přemyslid, và tiên tri và thành lập thành phố Prague vào thế kỷ thứ 8.

    [​IMG]
    [​IMG]
    Libuše được cho là con gái út của nhà cai trị huyền thoại không kém người Séc Krok. Truyền thuyết kể rằng cô là người khôn ngoan nhất trong ba chị em, và trong khi chị gái Kazi là một người chữa bệnh và Teta là một pháp sư, cô có năng khiếu nhìn thấy tương lai, và được cha cô chọn làm người kế vị, để phán xét những người. Theo truyền thuyết, cô tiên tri từ lâu đài của mình tại Libušín, mặc dù những truyền thuyết sau này nói rằng đó là Vyšehrad.

    Truyền thuyết nói rằng Libuše xuất hiện trên một vách đá cao trên Vltava và tiên tri: "Tôi thấy một thành phố vĩ đại mà vinh quang sẽ chạm vào các vì sao." Trên trang web, cô đã ra lệnh xây dựng một lâu đài và một thị trấn tên là Prague. và yêu cầu cô kết hôn, nhưng cô đã yêu một người cày thuê, Přemysl. Do đó, cô liên quan đến một tầm nhìn trong đó cô nhìn thấy một người nông dân với một chiếc dép bị gãy, cày ruộng hoặc trong các phiên bản khác của truyền thuyết, ăn từ một chiếc bàn sắt. Cô đã hướng dẫn các ủy viên hội đồng của mình tìm kiếm người đàn ông này bằng cách thả một con ngựa ở ngã ba; họ theo nó đến làng Stadice và tìm thấy Přemysl chính xác như cô đã nói (hoặc là cày ruộng, hoặc dùng lưỡi cày sắt làm bàn tạm thời). Hai ông bà tìm thấy Přemysl đã đưa anh ta đến cung điện hoàng tử nơi Libuše kết hôn với anh ta, và Přemysl the Plowman vì thế trở thành người cai trị. Họ tiếp tục có ba người con trai: Radobyl, Lidomir và Nezamysl, người tiếp tục triều đại Přemyslid ở vùng đất Séc.

    Trong một truyền thuyết khác, cô đã chỉ huy các ủy viên hội đồng của mình tìm thấy một thành phố tại nơi họ tìm thấy một người đàn ông tận dụng tối đa hàm răng của mình vào giữa trưa. Họ lên đường và vào giữa trưa đã tìm thấy một người đàn ông cưa một khối gỗ (sử dụng răng cưa của mình) khi những người khác đang ăn; Khi họ hỏi anh ta đang làm gì, anh ta trả lời "Prah" (trong tiếng Séc có nghĩa là "ngưỡng") và vì vậy Libuše đã đặt tên cho thành phố Prague (tiếng Séc: "Praha"). [4]

    [​IMG]


    Libuše tại đường Karlova, Prague câu chuyện về Libuše và Přemysl đã được kể lại chi tiết vào thế kỷ thứ 12 bởi Cosmas of Prague trong Chronica Boëmorum .


    Một tài khoản ban đầu khác được đưa vào biên niên sử 1552 của Jan Dubravius Historia regni Bohemiae và Johann Karl August Musäus đã sử dụng điều này và Aeneas Silvius ' phiên bản huyền thoại của ông là "Libussa", mà ông đã đưa vào Volksmärchen der Deutschen (1782 Lỗi86).
    .
    một cuốn tiểu thuyết của Miloš Urban. Cô cũng là một nhân vật trong vở kịch của Edward Einhorn,Rudolf II . dưới tên Nữ hoàng Pagan .

    Hành tinh nhỏ 264 Libussa được đặt tên để vinh danh cô ấy. [6]
  13. jenova12345

    jenova12345 New Member

    Eduard Schönfeld (ngày 22 tháng 12 năm 1828 – ngày 1 tháng 5 năm 1891) là một nhà thiên văn học người Đức.

    Giáo dục [ sửa Khi rời khỏi nhà thi đấu, anh muốn cống hiến hết mình cho thiên văn học, nhưng từ bỏ ý tưởng này để bảo vệ mong muốn của cha mình. Đầu tiên anh đến Hanover và sau đó đến Kassel để học kiến trúc, mà dường như anh có chút thiên hướng. 1849 tìm thấy anh ta học hóa học dưới Bunsen tại Marburg, nơi tình yêu của anh đối với thiên văn học được hồi sinh nhờ các bài giảng của Gantic.


    Năm 1851, ông đến thăm Đài thiên văn Bon và nghiên cứu thiên văn học dưới thời Friedrich Wilhelm Argelander. Năm 1853, ông được bổ nhiệm làm trợ lý, và năm sau đó đã giành được bằng bác sĩ với chuyên luận Nova Elementa Thetidis . Tại Bon, ông đã tham gia vào việc chuẩn bịDurchmusterung của thiên đàng phương bắc. Ông đã tiến hành điều tra về sự thay đổi ánh sáng ở các ngôi sao khác nhau, dành cho những đêm làm việc này, vì lý do ánh trăng, không phù hợp với các quan sát khu vực. Kết quả của những nghiên cứu này đã được công bố trong Sitz. Giàu có. Viên. Akad. tập. xlii.
    . Thiết bị công cụ của đài thiên văn đó có phần cổ kính, kính viễn vọng lớn nhất của anh ta là một khúc xạ nhỏ của khẩu độ 73 dòng, nhưng anh ta đã chọn một dòng công việc phù hợp với các thiết bị theo ý mình, quan sát tinh vân và các ngôi sao biến đổi và theo dõi sao chổi và mới những hành tinh. Kết quả quan sát tinh vân của ông được chứa trong hai danh mục được xuất bản trong Astronomische Beobachtungen der Grossherzoglichen Sternwarte zu Mannheim phần thứ nhất và thứ 2 (1862 và 1875) Jahresberichte des Mannheimer Vereins für Naturkunde số 32 và 39 (1866 và 1875).


    Đài thiên văn Bon [ chỉnh sửa ]
    Về cái chết của Argelander, xảy ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1875, Schönfeld được bổ nhiệm để trở thành giám đốc của Đài thiên văn Bon, và ngay sau đó cuộc hẹn của ông, ông bắt đầu công việc cuối cùng và lớn nhất của mình, phần mở rộng, trong kế hoạch của Argeland, về cuộc khảo sát thiên đàng xuống tới 23 độ của sự suy giảm phía nam. Kinh nghiệm thu được từ cuộc khảo sát phía bắc dưới sự chỉ đạo của Argeland đã cho phép Schönfeld giới thiệu một số cải tiến trong các phương pháp được sử dụng, điều này làm tăng tính chính xác của công việc này, thực tế đã hoàn thành vào tháng 3 năm 1881, một số sửa đổi chỉ còn lại được thực hiện. Các quan sát khu vực này có 363.932 vị trí sao riêng biệt và tạo thành nền tảng của danh mục 133.659 sao nằm trong khoảng từ 2 đến 23 độ nam, được xuất bản năm 1886 như là tập thứ tám của các quan sát Bon.

    Các chi nhánh [ chỉnh sửa ]
    Schönfeld là thành viên của Astronomische Gesellschaft từ nền tảng của nó vào năm 1863, trở thành thành viên của hội đồng đến năm 1869, và vào năm 1875 trở thành biên tập viên của hội đồng và thư ký kết hợp với Winnecke. Năm 1878, ông được bầu làm Cộng sự nước ngoài của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia.

    Hành tinh nhỏ 5926 Schönfeld được đặt tên để vinh danh ông.

Chia sẻ trang này